Trung tâm ngữ

Trung tâm ngữ là thành phần trung tâm bị tu sức ngữ tu sức và giới hạn trong đoản ngữ, quyết định từ loại của đoản ngữ[1][2]. Ví dụ, trung tâm ngữ của đoản ngữ danh từ phóng viên Việt Nam là danh từ phóng viên, trung tâm ngữ của đoản ngữ động từ chạy thật nhanh là động từ chạy.

Phổ thông mà nói, trung tâm ngữ là thành phần quan trọng nhất trong một phần câu nói. Ví dụ, bươm bướm bay, thành phần quan trọng nhất là bươm bướm; chơi đùa vui vẻ, thành phần quan trọng nhất là chơi đùa. Nếu thiếu bươm bướm hoặc chơi đùa thì ý nghĩa không hoàn chỉnh.

Khác biệt ngôn ngữ

Tiếng Trung Quốc

Trong tiếng Trung Quốc hiện đại, trung tâm ngữ và tu sức ngữ hợp thành đoản ngữ thiên chính, nếu tu sức ngữ là định ngữ thì gọi là đoản ngữ định-trung, nếu tu sức ngữ là trạng ngữ thì gọi là đoản ngữ trạng-trung. Trung tâm ngữ và bổ ngữ hợp thành đoản ngữ trung-bổ.

Cấu tạo định ngữ - trung tâm ngữ

Định ngữ - trung tâm ngữ gọi tắt là định-trung. Trung tâm ngữ của đoản ngữ định-trung thông thường do từ ngữ thể từ[Chú ý 1] đảm nhận. Ví dụ:

Từ ngữ vị từ cũng có thể đảm nhận làm trung tâm ngữ. Ví dụ: 群众的支持,温度的下降,商人的精明,智力的开发,体制的束缚,满腹的怨恨

Cấu tạo trạng ngữ - trung tâm ngữ

Trạng ngữ - trung tâm ngữ gọi tắt là trạng-trung. Trung tâm ngữ của đoản ngữ trạng-trung thông thường do từ ngữ vị từ[Chú ý 3] đảm nhận. Ví dụ:

Có lúc số từ hoặc lượng từ cũng có thể đảm nhận làm trung tâm ngữ. Ví dụ: 正好五位,就两节课,才五点

Cấu tạo trung tâm ngữ - bổ ngữ

Trung tâm ngữ - bổ ngữ gọi tắt là trung-bổ. Trung tâm ngữ của đoản ngữ trung-bổ thông thường do động từ và hình dung từ đảm nhận. Ví dụ:

Tiếng Anh

Trong tiếng Anh, trung tâm ngữ của một từ ghép là từ cán quyết định loại hình ngữ nghĩa của nó, ví dụ như trung tâm ngữ của handbagbag, không phải là hand. Quan sát hai diễn đạt bên dưới:

Danh từ dog là trung tâm ngữ của đoản ngữ big red dog, bởi vì nó quyết định phạm trù cú pháp của đoản ngữ, khiến đoản ngữ đó trở thành một đoản ngữ danh từ, mà không phải là đoản ngữ tính từ. Tính từ bigred là dùng để tu sức cho trung tâm ngữ, cho nên gọi là y tồn ngữ.[3] Tương tự, từ cán song trong từ ghép birdsong là trung tâm ngữ, bởi vì nó quyết định ý nghĩa cơ bản của cả câu. Từ cán bird là y tồn ngữ của song. Birdsong là một loại song, mà không phải là loại bird. Ngược lại, songbird là một loại bird.

Trong ngữ pháp phụ thuộc, bộ phận tu sức trung tâm ngữ trong đoản ngữ hoặc từ ghép, gọi là y tồn ngữ.[4] Trung tâm ngữ và y tồn ngữ hình thành mối quan hệ y tồn (dependency). Đoản ngữ hoặc từ ghép có chứa trung tâm ngữ thì gọi là cấu tạo hướng tâm (endocentric), cấu tạo li tâm (exocentric) chỉ kết cấu không có trung tâm ngữ. Trung tâm ngữ vô cùng quan trọng đối với việc xác định phương hướng phân nhánh. Đoản ngữ của trung tâm ngữ đặt trước thì phân nhánh bên phải, đoản ngữ của trung tâm ngữ đặt sau thì phân nhánh bên trái, đoản ngữ của trung tâm ngữ đặt giữa thì phân nhánh cả bên trái và bên phải.

Biểu diễn cây phân tích

Cây phân tích

Rất nhiều lí luận cú pháp đều dùng cấu tạo hình cây để biểu thị cây phân tích. Những cây phân tích này thông thường tiến hành tổ chức theo một trong hai loại quan hệ bên dưới: hoặc là quan hệ hợp thành của ngữ pháp cấu tạo đoản ngữ (hình bên trái), hoặc là quan hệ y tồn của ngữ pháp phụ thuộc (hình bên phải). Ví dụ biểu đồ:[5]

Representing heads

Cây phân tích kí hiệu chữ a thông qua nhãn phạm trù ngữ pháp, cây phân tích kí hiệu chữ b thông qua bản thân đơn từ mà làm dấu.[6] Danh từ stories là trung tâm ngữ của funny (hình a). Trong cây quan hệ hợp thành bên trái, danh từ đem phạm trù ngữ pháp của nó chiếu vào trong nút mẹ, khiến cả đoản ngữ có tính danh từ (NP). Trong cây quan hệ y tồn bên phải, danh từ chỉ chiếu một nút, nút này chi phối nút tính từ chiếu vào, cũng khiến cả đoản ngữ có tính danh từ.

Ví dụ thêm

Dưới đây nêu ra thêm ví dụ. Cây phân tích kí hiệu chữ a bên trái là cây quan hệ hợp thành, cây phân tích kí hiệu chữ b bên phải là cây quan hệ y tồn. Hình biểu diễn cây phân tích dưới đây sử dụng bản thân đơn từ mà tiến hành đánh dấu, mà không phải thông qua phạm trù ngữ pháp mà đánh dấu.

Trung tâm ngữ đặt sau

Head-final trees

Trung tâm ngữ đặt trước

Head-initial trees

Trung tâm ngữ đặt giữa

Head-medial trees

Cây quan hệ hợp thành của trung tâm ngữ đặt giữa ở đây chọn dùng phân nhánh n nguyên truyền thống hơn mà phân tích. Bởi vì rất nhiều lí luận ngữ pháp cấu tạo đoản ngữ nổi tiếng (ví dụ như lí luận quản lí và ràng buộc (en) và phương án tối giản (en)) đều chọn dùng luật phân nhánh nhị nguyên, những cây phân nhánh n nguyên này có khả năng gây tranh cãi.

Cây lí luận X'

Dựa vào cây phân tích của lí luận X' cũng có thể xác định vị trí của trung tâm ngữ, mặc dù việc miêu tả trung tâm ngữ không hề trực tiếp như cách trên. Dàn khung lí luận X' tiêu chuẩn của tiếng Anh được vẽ như bên dưới:

X-bar structure

Trong kết cấu này vừa có trung tâm ngữ đặt trước vừa có trung tâm ngữ đặt sau: đặt trước thể hiện ở chỗ trung tâm ngữ X0 nằm phía trước bổ ngữ; đặt sau thể hiện ở chỗ hình chiếu X' của trung tâm ngữ nằm phía sau tiêu định ngữtiếng Anh-{Specifier (linguistics)}-.

Tham số phương hướng trung tâm ngữ

Phương hướng của trung tâm ngữ đối với việc xác định phân nhánh vô cùng quan trọng. Đoản ngữ của trung tâm ngữ đặt trước phân nhánh sang phải, đoản ngữ của trung tâm ngữ đặt sau phân nhánh sang trái, đoản ngữ của trung tâm ngữ đặt giữa phân nhánh cả bên trái và bên phải. Vì vậy, có một số nhà phân loại học ngôn ngữ căn cứ vào tham số phương hướng trung tâm ngữ trong ngữ tự đem ngôn ngữ tuân theo cú pháp học mà tiến hành phân loại, giả định mỗi loại ngôn ngữ có một ngữ tự cố định. Hình vẽ bên dưới là cây quan hệ y tồn của câu anh ta phát hiện bản thân mình đã biến thành một con bọ cực kì to lớn, câu thoại đầu tiên trong tác phẩm Hoá thân của nhà văn Franz Kafka.

The Metamorphosis-English

Cây phân tích cho thấy rõ tiếng Anh xét về mức độ to lớn là một loại ngôn ngữ có trung tâm ngữ đặt trước, kết cấu giảm dần từ trái sang phải. Nhưng cũng có tồn tại một số ít quan hệ y tồn có trung tâm ngữ đặt sau, ví dụ như quan hệ y tồn giữa hạn định từ và danh từ (a bug), quan hệ y tồn giữa tính từ và danh từ (monstrous bug, verminous bug), quan hệ y tồn chủ ngữ và động từ (he discovered, he had). Trên thực tế sự kết hợp trung tâm ngữ đặt trước và trung tâm ngữ đặt sau mới là trạng thái bình thường. Loại ngôn ngữ có trung tâm ngữ đặt trước hoặc trung tâm ngữ đặt sau thuần tuý, khả năng cơ bản là không tồn tại. Mặc dù như vậy, nhưng có một số loại ngôn ngữ như tiếng Nhật chẳng hạn đã tiếp cận theo hướng trung tâm ngữ đặt sau thuần tuý. Như hình dưới đây, một câu nói đồng dạng nếu dùng tiếng Nhật biểu thuật thì không khó phát hiện trung tâm ngữ đặt sau trong tiếng Nhật chiếm vị trí tuyệt đối quan trọng (kết cấu tăng dần từ trái sang phải):

The Metamorphosis-Japanese

Trung tâm ngữ đánh dấu và y tồn ngữ đánh dấu

Căn cứ một đoản ngữ là trung tâm ngữ đánh dấu hay là y tồn ngữ đánh dấu, cũng có thể đem đoản ngữ về phương diện từ pháp học chia làm hai loại. Y tồn ngữ ảnh hưởng đến hình thức của trung tâm ngữ, ta gọi là trung tâm ngữ đánh dấu; trung tâm ngữ ảnh hưởng đến hình thức của y tồn ngữ, ta gọi là y tồn ngữ đánh dấu. Thí dụ 's - lối đánh dấu sở hữu cách của tiếng Anh, xuất hiện trên y tồn ngữ man; tuy nhiên, lối dánh dấu sở hữu cách trong tiếng Hungary thì xuất hiện trên trung tâm ngữ ház:[7]

Sở hữu cách
Tiếng Anh the man's house đánh dấu sở hữu cách trên y tồn ngữ
Tiếng Hungary az ember ház-a đánh dấu sở hữu cách trên trung tâm ngữ

Chú ý

  1. ^ Thể từ là tên gọi chung của số từ, lượng từ, danh từđại từ. Chức năng ngữ pháp của số từ, lượng từ, danh từ và đại từ tương đối gần gũi. Bốn cái gộp lại trở thành thể từ, đối lập với vị từ.
  2. ^ Đoản ngữ phục chỉ (复指短语), hoặc gọi là đoản ngữ đồng vị (同位短语), phần lớn do hai bộ phận hợp thành, từ ngữ của mỗi bộ phận trước và sau khác nhau, nhưng biểu thị cùng một sự vật. Ví dụ: 我自己 bản thân tôi, 你们俩 hai anh chị, 父子二人 hai cha con, 首都北京 Bắc Kinh thủ đô, 我们共产党人 đảng viên ta. Thành phần trực tiếp của đoản ngữ đồng vị thông thường do từ ngữ thể từ đảm nhận, từ ngữ vị từ có lúc cũng có thể coi là thành phần trực tiếp trong đoản ngữ đồng vị. Ví dụ: 治理整顿金融秩序这项工作 công tác quản lí và chỉnh đốn trật tự tài chính, 贪污腐化这种现象 hiện tượng tham ô hủ bại. Giữa các thành phần trực tiếp của đoản ngữ đồng vị không có mối quan hệ kết cấu kiểu đồng đẳng, chọn lựa hay tăng tiến, không thể thêm vào từ ngữ quan liên (liên từ) hoặc trợ từ 的. Trong hai thành phần trực tiếp, thông thường một cái đề cập sự tương đối cụ thể, cái còn lại đề cập tương đối khái quát.
  3. ^ Vị từ là từ dùng để miêu tả hoặc phán định tính chất, đặc điểm của khách thể hoặc mối quan hệ giữa các khách thể. Căn cứ vào định nghĩa của tiếng Hán hiện đại, thể từ của tiếng Hán bao gồm danh từ, số từ, lượng từ và đại từ; vị từ của tiếng Hán bao gồm động từ và hình dung từ. Ví dụ: chữ 是 trong câu 猫是动物 là vị từ, còn 猫 là khách thể; 三大于二 thì 大于 là vị từ.

Xem thêm

  • Phân nhánh
  • Thành phần cú pháp
  • Ngữ pháp phụ thuộc
  • Ngữ pháp kết cấu đoản ngữ chuyển động trung tâm ngữ
  • Tham số phương hướng trung tâm ngữ
  • Ngôn ngữ trung tâm ngữ đánh dấu
  • Đoản ngữ
  • Ngữ pháp kết cấu đoản ngữ

Chú thích

  1. ^ “head - Oxford Advanced Learner's Dictionary”. oxfordlearnersdictionaries.com. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023. the central part of a phrase, which has the same grammatical function as the whole phrase.
  2. ^ Richards, Jack C.; Schmidt, Richard (2013). Longman Dictionary of Language Teaching and Applied Linguistics. Luân Đôn: Taylor & Francis. ISBN 9781317863069.
  3. ^ Discerning heads from dependents is not always easy. The exact criteria that one employs to identify the head of a phrase vary, and definitions of "head" have been debated in detail. See the exchange between Zwicky (1985, 1993) and Hudson (1987) in this regard.
  4. ^ For a good general discussion of heads, see Miller (2011:41ff.). However, take note Miller miscites Hudson's (1990) listing of Zwicky's criteria of headhood as if these were Matthews'.
  5. ^ Dependency grammar trees similar to the ones produced in this article can be found, for instance, in Ágel et al. (2003/6).
  6. ^ Using the words themselves as the labels on the nodes in trees is a convention that is consistent with bare phrase structure (BPS). See Chomsky (1995).
  7. ^ See Nichols (1986).

Tham khảo

  • Chomsky, N. 1995. The Minimalist Program. Cambridge, Massachusetts: The MIT Press.
  • Corbett, G., N. Fraser, and S. McGlashan (eds). 1993. Heads in Grammatical Theory. Cambridge University Press.
  • Hudson, R. A. 1987. Zwicky on heads. Journal of Linguistics 23, 109–132.
  • Miller, J. 2011. A critical introduction to syntax. London: Continuum.
  • Nichols, J. 1986. Head-marking and dependent-marking grammar. Language 62, 56-119.
  • Zwicky, A. 1985. Heads. Journal of Linguistics 21, pp. 1–29.
  • Zwicky, A. 1993. Heads, bases and functors. In G. Corbett, et al. (eds) 1993, 292–315.